Một số di tích lịch sử cấp quốc gia của huyện Vĩnh Bảo - điểm đến đầu Xuân Bính Thân 2016
MỘT SỐ DI TÍCH LỊCH SỬ CẤP QUỐC GIA CỦA HUYỆN VĨNH BẢO – ĐIỂM ĐẾN ĐẦU XUÂN BÍNH THÂN 2016
Miếu Bến
Nằm ở phía Bắc huyện Vĩnh Bảo, cách trung tâm Thị trấn khoảng 7km về phía Bắc, Miếu Bến nằm cạnh bến đò qua sông Luộc, thuộc thôn Hà Phương xã Thắng Thuỷ huyện Vĩnh Bảo.
Quang cảnh miếu Bến
Miếu thờ Cương Nghị và Bảo Công, hai danh tướng của vua Hùng Duệ Vương cùng Thục Phán An Dương Vương, vị vua kế tục truyền thống dựng nước của 18 đời vua Hùng và Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng, danh tướng triều Lý .
Miếu Bến-Hà Phương là một công trình kiến trúc cổ theo kiểu chữ Tam gồm có 3 toà nhà: Tiền đường, đại bái và nội cung. Quy mô miếu tuy không lớn, nhưng đồng bộ và tiềm ẩn nhiều giá trị quý về lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, đã được Bộ Văn hoá xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1993.
Nổi bật nhất là Tam quan miếu được xây bằng gạch cao to, đường bệ và hài hoà với cảnh quan khuôn viên. Sân miếu vuông vức, lát gạch phẳng phiu. Bộ mái toà miếu lợp ngói mũi hài, rêu phong cổ kính.
Hiên toà miếu thấp nhỏ, được bó bằng những viên gạch Bát Tràng. Ba gian trung tâm cả trước và sau toà tiền đường và mặt trước toà đại bái, hậu cung đều mở cửa gỗ kiểu “cửa tùng cung khách” tạo cho toà miếu cổ càng thêm thần bí và linh thiêng. Nối toà tiền đường với toà đại bái là hai giải vũ gồm sáu gian nhỏ xinh như những nhà cầu nối dẫn du khách viếng thăm và người hành sự vào nội cung không phải chịu ảnh hưởng của thời tiết bên ngoài. Khoảng trống giữa là sân “lọng” vuông vức tạo một khoảng sáng trời thật êm dịu và tạo thêm chiều sâu của không gian kiến trúc.
Sân lọng
Bước vào bên trong toà cổ miếu sự ngạc nhiên như được tăng lên bởi hệ thống cuốn thư, đại tự, câu đối, cửa võng...những di vật này tuy không còn mang niên đại từ thời khởi dựng nhưng đó là những mảng chạm và linh vật khá đẹp, khá điển hình. Trang trí ở đây chủ yếu là đề tài tứ linh, vật linh và cỏ cây, hoa lá. Những con rồng, con lân được thể hiện trên nhiều chất liệu khác nhau trong thế chầu mặt nhật lúc to, lúc nhỏ, bộ mặt dữ tợn song được thể hiện rất sáng tạo và khả ái. Còn rùa được thể hiện y như thật, khi được cách điệu hoá thành hình vuông, hình lục giác, lưng đội hòm sách, tượng trưng cho sự trường tồn vĩnh cửu. Những con chim phượng hoàng đẹp đẽ được thể hiện một mình hoặc từng cặp khi được thể hiện như thân gà lúc lại ẩn mình trong mây cụm...Đào, mai, lan, cúc, trúc, sen được hoá thân thành những con rồng, con lân, chim phượng, các biểu tượng cầu mong những điều tốt lành, sự sinh sôi, nảy nở, mùa màng bội thu...
Miếu Bến không chỉ là công trình kiến trúc đẹp mà trong đó còn lưu giữ được nhiều hiện vật, tư liệu quý gồm đủ các chất liệu gốm, đá, gỗ, đồng...đặc biệt là hai bia đá có niên đại Tự Đức (1875 và 1882). khắc trọn vẹn bản ngọc phả của hai vị Thành Hoàng. Ngoài ra còn lưu giữ 22 sắc phong trải dài từ niên hiệu Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Quang Trung, Cảnh Thịnh đến Gia Long, Thiệu Trị, Tự Đức, Khải Định. Đây là những văn bản chữ Hán rất quan trọng trong việc nghiên cứu thân thế, sự nghiệp của các vị Thành Hoàng làng về cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta ngay buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Lễ hội miếu Hà Phương rất độc đáo, mang nét đặc thù của địa phương. Nghe các cụ cao tuổi kể lại thì lịch trình lễ hội ở Hà Phương ngày xưa thật phong phú, phản ánh sự giao hoà giữa con người với con vật, thiên nhiên sông núi, cỏ cây...Lòng người những mong trời đất mưa thuận, gió hoà cho dân khang, vật thịnh. Làng có lệ mở hội mùa xuân diễn ra trong 3 ngày bắt đầu từ ngày 6/1 (âm lịch), có lễ tiễn Long Chu, lệ làm thuyền rồng bằng giấy tế lễ trong 3 ngày, sau đó mang ra sông hạ thuỷ. Trò vui có nhún đu, đấu vật, hát chèo, diễn xướng, ca trù... Sang tiết hè thu có hội thi thả diều, thả đèn trời...
Di tích miếu Bến, Hà Phương cùng những di vật cổ, là những chứng tích vật chất gắn liền với truyền thống lịch sử có giá trị giáo dục truyền thống yêu nước cho cán bộ và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ ngày nay với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đình Tứ Duy
Đình Tứ Duy thuộc thôn Tứ Duy, xã Hưng Nhân, huyện Vĩnh Bảo. Đây là một công trình nghệ thuật cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đình thờ Bùi An Thành , tướng thời vua Hùng thứ 18, một nhân vật quan trọng trong hệ thống thần thoại thời Hùng Vương ở Hải Phòng.
Cổng đình Tứ Duy
Đình Tứ Duy là một trong những ngôi đình lớn ở huyện Vĩnh Bảo, một công trình kiến trúc nghệ thuật bằng gỗ lim, bố cục mặt bằng hình chữ Đinh quen thuộc. Toà tiền đường 5 gian làm theo kiểu “mái đao tàu thực” với 4 mái đao cong đắp rồng chầu phượng mớm. Mái lợp ngói vảy rồng. Hồi long mang dáng dấp của thuỷ quái Makara, một biểu tượng cầu mưa thuận gió hoà của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở vùng Đông Nam Á. Góc mái đắp nghê chầu trong tư thế hùng dũng đậm phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX.
Cửa đình làm theo lối “cửa tùng cung khách”. Kết cấu bộ khung đình hoàn toàn bằng gỗ lim chắc khoẻ. Phía trên theo lối “thượng tứ hạ ngũ”. Trong đình trên các bức cốn, đầu dư, rường, bẩy, đầu xà đều được chạm khắc, trang trí cầu kỳ. Đẹp nhất là 4 bức cốn gian giữa toà tiền đường thể hiện các đề tài trang trí chủ yếu là rồng cuốn, phượng múa, rùa bơi cùng các sóng nước, vân xoắn...tạo nên một bức tranh khá sinh động, mạnh mẽ mà không kém phần uyển chuyển. Tại toà tiền đường ken dầy các bức cửa võng, cuốn thư, hoành phi, câu đối tất cả đều được chạm khắc cầu kỳ, tinh xảo và được sơn son thếp vàng, được bài trí cùng các pho tượng, đồ thờ, cờ lọng tạo tính uy nghiêm thần thánh.
Trải qua những biến động của lịch sử cũng như mưa nắng của thời gian, đình Tứ Duy đã được trùng tu, sửa chữa nhiều lần. Kiến trúc hiện tại chỉ còn một số chi tiết mang dấu ấn của sự chuyển tiếp từ thời Lê sang Nguyễn. Với quy mô 8 gian (5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung), cột kèo thoáng đãng, những mảng chạm khắc trau chuốt, sinh động trên các cốn mê, bẩy hiên, đầu xà với các hoạ tiết, hoa văn phong phú làm tăng thêm tính thẩm mỹ cho công trình. Qua đó cũng phản ánh được quan niệm, tư tưởng, văn hoá truyền thống của dân tộc ở các giai đoạn lịch sử đã qua.
Hội làng Tứ Duy vào ngày sinh thánh mồng 6 tháng 3 (âm lịch). Xưa kia, ngày mở hội dân làng rước bài vị Thành Hoàng từ miếu về đình cũ. Lễ vật thường có trong ngày hội tế lễ là lợn ông Bồ, bánh dày, hoa quả, cơm, cá. Sau nghi lễ long trọng địa phương tổ chức các cuộc vui chơi tại sân đình như: chọi gà, đánh vật, hát chèo, hát nhà tơ...Vào những ngày này, người xa gần về dự hội rất đông. Nằm ở vùng đồng bằng, xa các trung tâm văn hoá, chính trị lớn đình Tứ Duy là biểu tươngj cho truyền thống đoàn kết của nhân dân địa phương . Ðây là nơi lưu giữ nhiều giá trị vật chất và tinh thần của một vùng vãn hoá và ðã đi sâu vào đời sống tình cảm của nhân dân địa phương. Ngày 26 tháng 1 năm 1999 Bộ Văn hoá Thông tin đã ra Quyết định số 02/1999, công nhận đình Tứ Duy là di tích lịch sử-văn hoá cấp Quốc gia.